Tuy nhiên, điều đó đối với Nhiếp Kiến Quốc cũng chẳng hề gì. Cậu đã trưởng thành, có thể dựa vào sức mình để nuôi sống gia đình. Trước đây, khi cha mẹ còn ở đây, điều kiện gia đình cũng khá ổn, cậu đã học đại học được một năm. Nhưng sau khi cơn bão ập đến, trường đại học mà cậu theo học cũng bị ảnh hưởng và phải đóng cửa.
Bây giờ cha mẹ không còn, để kiếm sống, cậu phải làm việc tại một nhà máy gạch ở Yên Giao, khuân gạch để kiếm tiền. Để có thêm thu nhập, mỗi lần cậu đều phải vác 200kg gạch ống, một ngày làm hàng chục lượt mới đủ trang trải chi tiêu gia đình. Điều này khiến cơ thể vốn đã gầy yếu của cậu ngày càng suy kiệt. Thêm vào đó, do thiếu dinh dưỡng lâu ngày, chẳng bao lâu sau, Nhiếp Kiến Quốc đổ bệnh.
Hoàn cảnh gia đình cậu bây giờ là nếu ngừng làm thì không có cái ăn. Để các em không bị đói, cậu đành phải bán máu. Sau vài tháng, một chàng trai ở độ tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống như cậu gầy rộc đi trông thấy, gần như không còn ra hình người.
Hôm đó, để có chút rau cho các em ăn, cậu lặn lội đến một cánh đồng cải thảo cách nhà mấy chục cây số, cố nhặt những lá rau hỏng mà người ta bỏ lại. Nhưng khi vui vẻ mang lá rau về nhà, cậu chợt nhận ra trước cửa nhà mình đông nghịt người.
Cậu vội vàng chen qua đám đông, và ngay lập tức nhìn thấy một nhóm cảnh sát mặc đồng phục đứng trong nhà. Một người trong số họ hỏi:
“Cậu có phải là Nhiếp Kiến Quốc không?”
Nhiếp Kiến Quốc có chút ngây dại, cậu sững người rồi khẽ gật đầu. Người kia tiếp tục nói:
“Sáng nay, tổ trưởng khu phố đến nhà cậu để thông báo một chuyện. Khi đến nơi, họ thấy cửa nhà mở nhưng gọi mãi không ai trả lời, nên họ đã tự bước vào. Kết quả là họ phát hiện em trai và em gái cậu đều nằm bất động trên nền nhà, liền lập tức đưa các em vào bệnh viện. Bây giờ cậu nên nhanh chóng đến đó xem tình hình thế nào.”
Nhiếp Kiến Quốc cuối cùng cũng hiểu ra. Cậu lập tức lao ra đường, điên cuồng chạy thẳng đến bệnh viện. Quả nhiên, bà Lưu ở ban quản lý khu phố cũng có mặt. Nhìn thấy cậu, bà vừa khóc vừa nói:
“Kiến Quốc à, con nghe lời bác đi, phải suy nghĩ thoáng một chút… Đây là số mệnh cả rồi!”
Nhiếp Kiến Quốc dường như đoán được đã có chuyện kinh khủng xảy ra. Nhưng cậu vẫn gượng cười nói với bà Lưu:
“Bác Lưu, bác đừng làm con sợ… Bác nhìn con lớn lên, có chuyện gì mà con không thể vượt qua chứ?”
Bà Lưu khịt khịt mũi, giọng nghẹn ngào:
“Kiến Quân và Kiến Anh… không còn nữa! Hôm nay bọn bác vốn đến để báo tin về cha mẹ con, nhưng không ngờ… không ngờ lại phát hiện hai đứa nhỏ nằm trên nền nhà. Có lẽ vì trong phòng quá lạnh, chúng nó đã mở nắp lò than, kết quả là bị ngộ độc khí than. Khi bọn bác đưa đến bệnh viện thì… thì hai đứa đã lạnh cứng rồi…”
Nghe xong, Nhiếp Kiến Quốc lập tức rút ra một kết luận: em trai và em gái cậu đã chết vì khí than, và chắc chắn cha mẹ cậu cũng đã gặp chuyện. Cha mẹ ư?
“Ba mẹ con… đã xảy ra chuyện gì?” Cậu đột ngột quay sang hỏi bà Lưu.
Bà Lưu đau xót nói:
“Ba con làm việc quá sức ở Đông Bắc, mắc bệnh phổi rồi qua đời. Mẹ con vì quá đau buồn mà cũng đi theo…”
Nhiếp Kiến Quốc ngồi phịch xuống đất. Cậu biết rằng bầu trời đã sụp đổ…
Nhờ sự giúp đỡ của ban quản lý khu phố, cậu lo xong hậu sự cho em trai và em gái, rồi nhận lại tro cốt của cha mẹ. Từ đó, cậu chỉ còn một mình, lẻ loi sống tiếp trên cõi đời này. Vài năm sau, vụ việc của cha mẹ cậu được giải oan. Khi nhân viên chính phủ đến tìm cậu, họ không thấy cậu đâu cả. Nhưng trong căn nhà, di ảnh của cha, mẹ, em trai, em gái, và chính cậu được xếp ngay ngắn trên bàn thờ…
Kể đến đây, Nhiếp Chí Quân thấy Trương Lượng đang nghe đến say mê, bèn nói:
“Câu chuyện đến đây là hết rồi.”
“Hả? Hết rồi à? Thế… Nhiếp Kiến Quốc đâu? Anh ta đi đâu? Còn sống hay đã chết?” Trương Lượng tò mò hỏi dồn.
Đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, cậu liền hỏi Nhiếp Chí Quân:
“Đây là chuyện có thật à? Anh ta cũng họ Nhiếp giống anh, chẳng lẽ là họ hàng của anh?”
Nhiếp Chí Quân cười nói:
“Chuyện thì có thật đấy, nhưng trùng họ chỉ là ngẫu nhiên thôi.”
Trương Lượng ngại ngùng, chỉ biết cười trừ. Có lẽ do uống rượu, tối hôm đó cậu ngủ rất sớm.
Rạng sáng hai giờ…
Lệt xệt…
Tiếng bước chân quen thuộc lại vọng đến từ sân.
Nhiếp Chí Quân chậm rãi bước xuống giường, đứng trước cửa, nhẹ giọng nói:
“Các em ngoan nào, đừng vội… sắp rồi, sắp rồi…”
—
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, Trương Lượng mới thực sự hiểu thế nào là say rượu. Đầu cậu nặng trịch, đau âm ỉ, nhưng vẫn gắng gượng chỉnh tề ra ngoài đi làm.
Chủ của trung tâm dạy thêm họ Triệu, Trương Lượng vẫn gọi cô là Chị Triệu.
Vừa bước vào cửa, Chị Triệu đã gọi cậu lại:
“Tiểu Trương, em có chỗ nào không khỏe à? Sao mặt mày trông tệ thế?”
Trương Lượng không ngốc đến mức thừa nhận mình uống quá chén hôm qua. Thế chẳng phải mất mặt sao? Nhất là ngày đầu tiên đi làm, phải để lại ấn tượng tốt chứ! Cậu bèn nói:
“À… chắc hôm qua em bị cảm nhẹ. Chị không biết đâu, chỗ em trọ không có lò sưởi, trời lạnh thế này em chỉ có thể bật quạt sưởi suốt đêm, lúc nóng lúc lạnh, nên hơi khó chịu một chút.”
Chị Triệu nghe vậy, lập tức tràn đầy lòng thương cảm:
“Ôi trời, vậy không được đâu Tiểu Trương! Em nên tìm chỗ nào tốt hơn đi. Trời Bắc Kinh lạnh thế này, không sưởi ấm sao mà chịu nổi?”
Tiểu Trương xua tay, tỏ ý rằng chuyện này chẳng có gì to tát. Dù gì cậu cũng là một thanh niên trai tráng, chịu chút khổ cực có đáng gì! Đợi khi công việc ổn định, nhất định cậu sẽ đổi sang một căn phòng gần chỗ làm hơn. Thấy cậu nói nhẹ nhàng như vậy, Chị Triệu cũng không nói thêm gì nữa.
Ngày đầu tiên đi làm của Trương Lượng khá nhẹ nhàng. Cậu tự thấy mình không gặp vấn đề gì khi dạy đám học sinh cấp hai này. Hơn nữa, sự xuất hiện của một thầy giáo nam mới đến càng khiến các học sinh hào hứng hơn. Tan làm, cậu ghé qua chợ đồ cũ, chọn mua một chiếc bàn làm việc đã qua sử dụng.
Dù sao thì anh Nhiếp cũng là một nhà văn, không thể cứ mãi dùng chung một chiếc bàn với cậu được. Cậu mượn ông chủ chợ một chiếc xe ba gác rồi tự mình chở bàn về.
Ai ngờ vừa bước vào sân, cậu đã thấy Nhiếp Chí Quân đứng đó, thẫn thờ nhìn vào khoảng không. Kỳ lạ thật, người anh này lúc nào cũng mang đến cho cậu cảm giác bí ẩn. Có lẽ, những gì cậu thấy chỉ là bề nổi của tảng băng chìm…
“Tiểu Trương, cậu kéo gì về đó?” Nhiếp Chí Quân lập tức để ý đến món đồ trên xe ba gác.
“À, tôi mua thêm một cái bàn làm việc cũ, như vậy anh không cần phải dùng chung bàn với tôi nữa.” Trương Lượng đáp.
Nhiếp Chí Quân ái ngại nói:
“Ngại quá, lại để cậu tốn tiền rồi. Lát nữa tôi đưa tiền cho cậu.”
Trương Lượng vội xua tay:
“Không cần đâu! Bàn này là đồ cũ, chẳng đáng bao nhiêu cả. Hơn nữa, giờ tôi cũng là ‘chủ nhà’ rồi, ít nhất cũng phải đảm bảo anh có đủ đồ dùng chứ?”
Hai người nhìn nhau cười, rồi cùng nhau khiêng bàn vào trong nhà. Đặt bàn xuống xong, Trương Lượng nói:
“Thế nhé, anh Nhiếp, từ giờ anh dùng bàn này đi. Tôi sẽ dùng cái cũ. Tôi để ý thấy bàn mới này có ngăn kéo còn nguyên vẹn, không như cái cũ, có một ngăn hỏng mãi không mở ra được.”
Không ngờ, Nhiếp Chí Quân vội vàng xua tay:
“Không không, tôi cứ dùng cái cũ đi. Viết trên đó mới có cảm hứng. Cậu dùng cái mới, đồ đạc của cậu nhiều, có ngăn kéo để đựng cũng tiện hơn.”
Trương Lượng nghe vậy, có chút ngại ngùng nói:
“À, anh xem này, ban đầu định mua cho anh dùng, vậy mà cuối cùng lại thành ra tôi được lợi rồi.”
Nói xong, cậu cười hì hì, rồi cũng không nhắc thêm gì nữa.